Thứ Năm, 25 tháng 6, 2015

VIỆT NAM - ĐIỂM ĐẾN CỦA CHUỖI CUNG ỨNG SẢN PHẨM DỆT MAY TOÀN CẦU

Ngày 25/6, Hội nghị quốc tế “Diễn đàn Dệt May Việt Nam 2015” do Hiệp hội Bông Sợi Việt Nam (VCOSA), Phòng Thương mại Xuất nhập khẩu Dệt may Trung Quốc (CCCT) tổ chức đã khai mạc tại Hà Nội.

Diễn đàn đã thu hút sự tham gia của một số Tập đoàn, doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may lớn trên thế giới như Puma, Levi Strauss, Li & Fung, Tal Group, đại diện Hiệp hội Thời trang Hoa Kỳ…và các doanh nghiệp dệt may trong nước.

Những năm gần đây, ngành dệt may Việt Nam đã có sự phát triển mạnh về năng lực sản xuất, trở thành quốc gia xuất khẩu hàng dệt may lớn trên thế giới. Hiện Việt Nam cùng Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ và Bangladesh là những nước xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới.

Các sản phẩm dệt may của Việt Nam đã được xuất khẩu sang 180 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Riêng trong sáu tháng đầu năm 2015, kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam tiếp tục duy trì mức tăng trưởng 2 con số, đạt 12,18 tỷ USD, tăng 10,26% so với cùng kỳ 2014.

Ngành công nghiệp dệt may hiện là một trong những ngành kinh tế lớn nhất của Việt Nam với hơn 4.000 doanh nghiệp hoạt động, đã và đang tạo việc làm và thu nhập ổn định cho khoảng 4,5 triệu lao động; trong đó 2,5 triệu lao động trực tiếp và gần 2 triệu lao động gián tiếp, thuộc các ngành công nghiệp phụ trợ, kho bãi, vận chuyển.

Trong thời gian tới, dệt may Việt Nam dự kiến sẽ được hưởng lợi từ một số Hiệp định thương mại tự do (FTA), như Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), FTA Việt Nam-EU, FTA Việt Nam-Hàn Quốc (VKFTA)… do thuế giảm mạnh và thúc đẩy thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.

Đến thời điểm này, Dệt may Việt Nam đang là đối tượng cạnh tranh của tất cả các quốc gia sản xuất dệt may trên thế giới. Các doanh nghiệp dệt may trong nước đã tận dụng tốt cơ hội phát triển thị trường, thu hút dòng vốn từ nước ngoài vào làm tăng quy mô của ngành.

Sau 9 năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thị phần hàng dệt may Việt Nam tại Mỹ không ngừng tăng lên, từ mức 3% hiện đã là 10% (chỉ sau Trung Quốc).

Kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng ấn tượng tại các thị trường lớn trong năm 2014 với mức tăng trưởng 17% ở châu Âu, 12,5% ở Mỹ và 9% ở Nhật Bản, 27% ở Hàn Quốc. Năm 2015, ngành dệt may của Việt Nam đã đặt mục tiêu xuất khẩu đạt 28,5 tỷ USD.
Ông Nguyễn Văn Tuấn, Phó Chủ tịch  Hiệp hội Bông Sợi Việt Nam (VCOSA) cho hay, đến năm 2030, dự kiến quy mô sản xuất hàng dệt may của toàn thế giới sẽ mở rộng lên gấp đôi, sản lượng của châu Á sẽ chiếm hơn 60% sản lượng dệt may thế giới; quy mô sản xuất tại châu Á sẽ tăng gấp 2,4%; TTP và FTA sẽ biến Việt Nam trở thành điểm đến cho chuỗi cung ứng sản phẩm dệt may toàn thế giới. Đó chính là cơ hội lớn cho ngành dệt may Việt Nam tận dụng đón đầu cơ hội này.

Bà Julia K. Hughes Chủ tịch Hiệp hội thời trang Mỹ cho rằng, nhiều công ty ở Mỹ có mong muốn sẽ tìm nguồn cung ứng từ nhiều quốc gia tham gia Hiệp định TTP khi Hiệp định này có hiệu lực và Việt Nam đang được xếp hạng cao nhất về khả năng thu hút các doanh nghiệp mới. Vì vậy, phía Việt Nam cần tận dụng cơ hội này.

Trong diễn đàn này, các Tập đoàn dệt may và các chuyên gia kinh tế hàng đầu cùng nhau chia sẻ về thị trường dệt may quốc tế, thị trường và quy mô ngành dệt may Việt Nam, xu hướng dịch chuyển đầu tư của các nhà sản xuất dệt may thế giới, phương thức liên kết các chuỗi cung ứng quốc tế của các thương hiệu toàn cầu.

Dự kiến, Hội nghị quốc tế “Diễn đàn Dệt May Việt Nam 2015” sẽ kết thúc vào ngày 27/6./.
 

Thứ Tư, 17 tháng 6, 2015

“Sốt” phụ kiện áo chống nắng giá khủng

Những mẫu áo chống nắng kiểu dáng nhưng với chất vải bình thường dường như không còn gây sự chú ý. Trên thị trường xuất hiện dòng sản phẩm áo chống nắng cao cấp mức giá tiền triệu kèm theo quảng cáo tác dụng phòng chống tia tử ngoại hiện đang được nhiều chị em quan tâm. 
Giá “sốc” nâng tầm đẳng cấp
Khác với các loại áo chống nắng bình dân thì áo chống nắng UV – tên gọi tắt của loại áo được quảng cáo là chống tia tử ngoại không được bày bán đại trà tại các vỉa hè, khu chợ bình dân. Tìm hiểu thông  tin trên một trang web bán hàng trực tuyến, chúng tôi không khỏi hoa mắt bởi các mẫu mã phong phú cùng với mức giá cao ngất ngưởng được chào bán.
Quan sát kỹ mẫu mã loại áo chống nắng đắt tiền này chúng tôi nhận thấy điểm khác biệt đầu tiên về kiểu dáng loại áo chống nắng cao cấp này được thiết kế tựa như một chiếc áo khoác màu thu mỏng nên có phần gọn gàng hơn các loại áo chống nắng thông thường. Theo thông tin trang web này cung cấp, các sản phẩm có nguồn gốc từ Đài Loan. Mọi công đoạn được sản xuất đều theo tiêu chuẩn được kiểm định của nước ngoài nên giá thành khá cao, bù lại người mua có thể hoàn toàn yên tâm về chất lượng. Với chứng nhận là hàng may mặc chuyên về chống tia tử ngoại hàng đầu Châu Á, chất lượng vải được cục bảo hiểm Đài Loan chứng nhận bảo đảm không gây hại cho làn da…như :  “đặc tính chống tia tử ngoại và sử dụng các chất liệu như Polyamide và polyester hay chất liệu sợi bamboo với đặc tính kháng khuẩn chống hôi,  ngăn chặn được tia tử ngoại (UV) không gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người như: nám, đen, đồi mồi...”
“Sốt” phụ kiện áo chống nắng giá khủng - Ảnh 1
Áo chống nắng được may 2 lớp bằng vải thường vẫn là sự lựa chọn “an toàn” cho nhiều chị em
Lần theo thông tin đính kèm trên trang mua bán trực tuyến này, chúng tôi liên hệ tới số điện thoại 098xxxxx được biết đó là một đại lý chuyên phân phối các phụ kiện chống nắng tại Long Biên – Hà Nội. Theo chủ đại lý tên Hiếu này cho biết đây là mặt hàng nhập 100% nên giá cao khá cao, thấp nhất cũng xấp xỉ 600 ngàn đồng/chiếc còn cao nhất có thể lên tới gần 2 triệu đồng/chiếc. Theo anh Hiếu mức giá đắt, rẻ tùy thuộc vào chất vải cấu thành sản phẩm. Thông thường áo được may bằng chất liệu vải polyester có ưu điểm độ co giãn khá tốt khiến người mặc có cảm giác thoải mái. Tuy nhiên chất vải này không thoát khí, có phần hơi bí nên giá dao động ở mức dưới 1 triệu đồng/ chiếc. Còn loại áo được đầu tư loại vải làm từ chất liệu polyamide khi sờ thấy vải thô ráp nhưng thoáng mát nên đắt hơn. Tuy nhiên bản thân những loại vải này đều không có đặc tính chống nắng mà công dụng này được phủ thêm bên trên bề mặt vải. Đó là bột gốm ceramicfiber – một loại hóa chất có tác dụng giúp người mặc cách ly được tia UV và hạn chế nóng.
Không chỉ riêng mặt hàng áo chống nắng mà đi kèm với chúng còn có những phụ kiện kèm theo với mức giá ngất ngưởng không kém như: găng tay, khẩu trang, mũ...cũng từ 160 -  500 ngàn đồng/chiếc tùy theo đó là sản phẩm dành cho trẻ em hay người lớn. Đặc biệt dòng sản phẩm dành cho trẻ nhỏ ngoài màu sắc sáng sủa, tươi mát (hồng, trắng ghi, ghi sáng, xanh nhạt...) thì những kiểu dáng còn được cách điệu thêm những chi tiết ngộ nghĩnh thu hút trẻ nhỏ ở phần mũ, vạt áo, khóa kéo...được mô phỏng hình thù những nhân vật hoạt hình ngộ nghĩnh: đoremon, picachu... “Tất cả những sản phẩm trên đều được giới thiệu là có chứng nhận của Cục bảo vệ an toàn bức xạ năng lượng nguyên tử Australia (ARPANSA) về chỉ số UPF kèm theo ảnh chụp giấy chứng nhận để người tiêu dùng hoàn toàn yên tâm về chất lượng”, anh Hiếu cho biết thêm.
“Sốt” phụ kiện áo chống nắng giá khủng - Ảnh 2
Áo chống nắng UV dành cho trẻ nhỏ với màu sắc và kiểu dáng bắt mắt
Của bền tại người
Liên hệ với kỹ sư Nguyễn Tiến Dũng – tổng công ty dệt may Hanosimex (Hà Nội) để có cái nhìn khách quan về công dụng sản phẩm, chúng tôi được biết phần lớn các loại quần áo chống nắng được quảng cáo chống tia tử ngoại như hiện nay đều được may bằng chất liệu vải bình thường. Chúng chỉ được thực sự “nâng tầm đẳng cấp” khi được hỗ trợ của hóa chất, cụ thể ở đây chính là lớp phủ có chức năng chống tia tử ngoại, kháng khuẩn. Mặc dù đây là loại hóa chất tương đối bền vững nhưng cũng chỉ có thể trụ được qua...vài chục lần giặt thì công dụng cũng bay mất. Lúc đó chiếc áo chống nắng không hơn gì những loại áo thông thường. Còn đối với loại vải được đầu tư thêm coong công nghệ nano từ khi kéo sợi thì tuổi thọ sẽ bền hơn. Tuy nhiên dù được xử lý hóa chất trước hay sau khi thành phẩm thì tính bền vững cũng không kéo dài được mãi bởi tuổi thọ của áo còn phụ thuộc vào người sử dụng có đúng cách hay không.
Cũng theo kỹ sư Nguyễn Tiến Dũng cho biết hiện nay áo chống nắng cao cấp này đang hút khách còn bởi màu sắc và kiểu dáng bắt mắt. Tuy nhiên khi lựa chọn, chị em cần lưu ý khi lựa chọn màu sắc nên chọn màu tối, vải dày sẽ chống tia UV tốt hơn đối với sản phẩm có màu sáng, vải mỏng. Còn đối với những người quan tâm nhiều đến chất liệu vải thì nên lựa chọn chất liệu vải cotton trộn polyester bởi thành phần cotton nhiều sẽ mát và thấm mò hôi hơn nhưng polyester nhiều sẽ có tác dụng chống UV tốt hơn.
Theo kinh nghiệm của chị Thu Anh (Ba Đình, Hà Nội), một khách hàng đã từng gắn bó với sản phẩm chống nắng cao cấp này gần 2 năm nay: “Trong quá trình sử dụng cũng cần lưu ý để kéo dài tuổi thọ cho áo như hạn chế giặt máy, ngâm nước lâu bởi chỉ cần vải giãn 10% đồng nghĩa với việc giảm đến 40% SPF và UPF. Ngoài ra còn tránh để áo trong tình trạng ẩm ướt tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng mặt trời. Vì thế không nên chọn loại áo có kích cỡ quá bó sát bởi mồ hôi ra ướt áo sẽ ảnh hưởng khá nhiều đến công dụng chống nắng của sản phẩm.
Người tiêu dùng còn e ngại
Mặc dù được quảng cáo với nhiều công dụng hấp dẫn nhưng trên thực tế, nhiều khách hàng vẫn còn e dè khi quyết định bỏ ra một món tiền không nhỏ để tậu chúng. Chị Minh Phương (Ba Đình, Hà Nội) cho biết: “ Hiện nay nhiều sản phẩm ăn theo công dụng của nano bị báo chí phanh phui bởi thực tế không chuẩn như quảng cáo khiến mình cũng cảm thấy e dè khi quyết định mua. Thay vì việc bỏ tiền ra rước một món đồ vẫn còn mù mờ về chất lượng, mình có thể đầu tư loại áo chống nắng được may 2 lớp cẩn thận với mức giá trên dưới 200 ngàn. Vừa yên tâm về chất lượng lại vừa phù hợp túi tiền”

Thứ Tư, 10 tháng 6, 2015

3 bí quyết chọn ga trải giường không phải ai cũng biết

Còn gì thích hơn khi bạn được nghỉ ngơi trên chiếc giường có tấm ga phủ mềm mại và mịn màng vào cuối ngày làm việc mệt mỏi? Nệm chính là nền tảng của sự thoải mái, nệm có áo bọc mềm mịn như ve vuốt làn da bạn, tạo cho bạn một giấc ngủ sâu và ngon.


Vậy nếu bạn chọn được một chiếc nệm ưng ý nhưng lại nhầm lẫn trong khâu chọn vỏ nệm thì sao? Màu sắc nên như thế nào? Chất liệu vải là gì? Hãy tìm hiểu để có sự lựa chọn đúng đắn nhé!
Các loại vải
- Cotton (vải bông): Đây là sự lựa chọn tốt nhất cho ga trải giường. Chất liệu 100% cotton đem lại sự thoáng khí, mềm mại, thoải mái và rất bền.
- Cotton pha: Loại vải này mang lại cảm giác nóng và dính, không thoáng khí như 100% cotton.
- Lụa: Sang trọng và tinh khiết là 2 đặc điểm nổi trội của loại vải này. Tuy nhiên, nhược điểm của nó là đắt và phức tạp với khâu bảo quản và giặt giũ.
- Tre: Một loại vải mới trong thế giới vải, tương tự như Cotton nhưng thoáng khí hơn và có đặc tính kháng khuẩn tự nhiên.
- Modal: Là loại vải sinh học được làm từ cellulose tái chế của cây sồi. Nó rất mềm và được ứng dụng phổ biến cho cả quần áo hay dệt may gia dụng như giường, nệm ghế, và khăn tắm. Modal có thể được sử dụng riêng hoặc kết hợp với bông cotton, spandex, hoặc vật liệu dệt khác.
Loại vải này có đặc tính giống Cotton như mềm mại, mịn màng và thoáng mát, thấm hút tốt và rất dễ nhuộm màu nhưng lại có một số lợi thế đáng kể hơn như mang cảm giác mát lạnh khi chạm vào, khả năng chống co rút, chống nhăn tốt và ko bị dính vào người khi ma sát, giữ được sự êm ái và co giãn lâu dài vì ko bị các khoáng chất do "nước cứng" bám vào, do vậy vẫn giữ được vẻ mới mẻ dù qua nhiều lần giặt tẩy.
- Microfiber: Là một sản phẩm sợi nhân tạo, được coi là thế hệ mới của sợi tổng hợp, là sự kết hợp của 2 nhóm sợi: 80% Polyester (Loại sợi có khả năng chống bụi, chống nước và chống cháy rất tốt) và 20% Polyamide (Nylon - Loại sợi có chức năng thấm hút và khô rất nhanh và rất bền).Đặc tính của loại vải này là sợi nhỏ rất mềm, trơn nhưng nóng. Một đặc tính khó chịu khác là rất dễ bám lông và tóc, vậy nên nếu nhà bạn có nuôi chó hoặc mèo thì không nên dùng loại vải này.
- Cotton thun: Loại vải này cũng rất được ưa thích, co giãn, mềm mại nhưng lại dễ rách.
- Flannel: Được làm từ vải len thô nhưng ngày nay, hầu hết vải flannel đều được làm từ len, cotton hay các chất liệu nhân tạo khác. Mùa thu đông là thời điểm thích hợp nhất để bạn tậu cho mình một chiếc ga giường flannel. Chúng trở nên thông dụng vào mùa lạnh vì tính tiện lợi, dễ phối hợp, ấm áp và thoải mái. Đây là loại vải truyền thống dành cho mùa đông.
Lựa chọn của bạn
Bạn lựa chọn màu sắc và hoa văn cho ga trải giường dựa trên sở thích và cá tính của mình. Gam màu trắng và các màu tự nhiên nhẹ nhàng là màu sắc phổ biến nhất trong phòng ngủ, đáp ứng ngay cả phong cách cá nhân ấn tượng nhất. Một sự lựa chọn khác là vải sọc, hoa hay chấm bi các màu. Nó sẽ không bị nhạt nhòa hay áp đảo khi kết hợp với các vật dụng khác trên giường như chăn, gối hay gối ôm.
Khi mua sắm cho trẻ em, hãy chọn những gì chúng thích, cho dù đó là một nhân vật hoạt hình, chủ đề về không gian, động vật hoặc những hình học kỳ quặc. Nếu bọn trẻ thích, giấc ngủ của chúng đến dễ dàng và ngọt ngào hơn.
Mặc dù mỗi chiếc giường chỉ cần một bộ ga phủ vì bạn có thể mang đi giặt, phơi và lồng vào như cũ trong ngày, nhưng để thuận tiện, hãy mua ít nhất ba bộ. Bạn có thể có đồ sạch để thay ngay cả khi đang đêm mà vô ý bị bẩn.
Điều bạn nên biết về mật độ sợi vải
- Mật độ sợi vải: Chất lượng vải dựa trên số lượng sợi vải đan trên 10cmvuông vải.
Mật độ sợi từ 200÷400: Loại vải này thích hợp để dùng hàng ngày vì mềm mại và thoải mái, vải cotton có mật độ khoảng 200 sợi/ 10cm2.
Mật độ sợi >400: Vải cao cấp, sang trọng vì độ mềm mượt của vải.
Mật độ sợi <200: Vải thô, thường dùng để làm túi ngủ hoặc dùng làm ga giường trẻ em.
- Sa tanh: Trông sáng, bóng, đẹp và có vẻ cao cấp. Tuy nhiên, loại vải này rất dễ xước vì số sợi ngang và dọc không đều nhau.
- Cotton Ấn Độ hoặc Ai Cập: đây là loại vải chất lượng cao, đặc biệt mềm và bền.
- Cotton hoặc cotton pha: mềm, bền và chống nhăn.
- Vải bông hữu cơ: dùng hóa chất để giảm co rút và chống nhăn. Tuy nhiên loại vải này lại nhạy cảm với cơ thể hoặc nếu bạn chỉ thích dùng loại vải hoàn toàn tự nhiên.
- Cotton lụa: loại bỏ các sợi bông ngắn và tạp chất, tạo ra một loại vải nhẹ, mượt mà hơn.

Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2015

Tự làm đám mây LED bằng sợi polyester

Bạn có thể tự làm ra những đám mây với những chùm tia lửa điện sấm sét ngay trên sân khấu hay trong căn phòng của mình bằng những vật liệu khá đơn giản. Trong những buổi tiệc, bạn có thể dùng đám mây này để tạo ra vẻ huyền bí và cổ tích cho không gian.

Các nguyên, vật liệu cần chuẩn bị:
- Lưới chì (lưới mắt cáo, loại nhỏ hơn lưới B40).
- Kìm cắt sắt.

Sợi polyester (có thể lấy từ gối hơi).

- Keo xịt 3M 75 Spray Adhesive.
Dãy đèn LED nhiều màu sắc.
Các bước thực hiện:
Bước 1: Tạo hình dạng cho đám mây
Bạn cuộn tròn lưới chì lại để dễ dàng hơn trong việc xử lý nó. Bạn có thể tạo hình đám mây giống như hình dạng trong thực tế hoặc có thể sáng tạo ra những hình dạng như mong muốn. Trong khi làm thì bạn dùng dây buộc chặt một đầu lại rồi dùng kìm cắt và uốn nắn tạo ra những hình đám mây. 
Bước 2: Trải sợi polyester và phun sơn
Bạn trải phẳng sợi cotton ra mặt sàn rồi tiến hành phun sơn (màu sắc do bạn chọn, trong bài viết này sử dụng màu hồng). Khi sơn xong phần phía ngoài và quấn với lưới chì thì nhìn sơ qua rất giống với kẹo bông.
Bước 3: Chèn đèn LED vào bên trong
 
Bạn có thể dùng dãy đèn LED RGB để chèn vào bên trong của đám mây để tạo hiện tượng flash hoặc hiện tượng sấm sét. Khi xong, bạn treo lên trần nhà và kết nối với nguồn điện, tắt ánh sáng đèn.  Khi đó, khách tham quan sẽ cảm giác như mình bước vào một khu nhà huyền bí với nhiều sự bí ẩn.
Tác giả bài viết: Dr@gon 
Nguồn tin: www.tutaylam.com

Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2015

Sản phẩm xơ Polyester (PSF).

Tính chất:
Sản phẩm xơ polyester của VIHAKO được sản xuất trên dây chuyền công nghệ thiết bị hiện đại  xơ Polyester có nhiều đặc tính tốt đáp ứng hầu hết các yêu cầu đối với vải sợi máy mặc như:

  • Có độ bền cơ học cao;
  • Có khả năng chịu nhiệt tốt; thử nghiệm trong môi trường không khí nóng ở 1800 C độ co ngót thấp đạt 4±2%.
  • Trong môi trường ẩm ướt hầu như không bị giảm sức bền.

Những đặc tính cơ bản của sản phẩm xơ PSF
9 đặc tính cơ bản của xơ PSF
1.Độ mảnh(Denier): là đại lượng đặc trưng cho độ mảnh của xơ cho biết độ dày mỏng của xơ, được tính bằng khối lượng của 9000m xơ Polyester . Denier của xơ ảnh hưởng đến denier của sợi kéo sau này. Cụ thể :Xơ càng mảnh thì sợi kéo được căng bền bởi vì trong cùng mặt cắt ngang của sợi mà như nhau, sợi chứa nhiều xơ mảnh sẽ có nhiều vật liệu hơn sợi chứa nhiều xơ thô, chính số lượng vật liệu cùng với lực liên kết ma sát của nhiều xơ làm nên độ bền của sợi sau này.
2.Độ lệch so với độ mảnh chuẩn (Denier Deviation): là đại lượng đặc trưng cho độ lệch của giá trị độ mảnh thực so với giá trị độ mảnh quy ước. Độ lệch của xơ ảnh hưởng tới độ đồng đều về tính chất độ mảnh khi sản xuất sợi kéo sau này.
3.Độ bền khi đứt sợi (Tenacity at Break): là đại lượng đặc trưng cho cường lực tại điểm đứt, ảnh hưởng tới độ bền khi kéo sợi sau này. Độ bền đứt phản ánh một chỉ tiêu cơ lý quan trọng của xơ được đo bằng lực làm đứt sợi. Độ bền đứt càng cao thì xơ càng dai, vải càng bền và lâu rách, thời gian sử dụng kéo dài.
4.Độ giãn dài khi đứt (Elongation at Break): cho biết xơ Polyester kéo căng được bao nhiêu % so với chiều dài ban đầu khi dứt, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất sợi. Độ giãn dài khi đứt cho biết sợi có thể căng ra được bao nhiêu so với chiều dài ban đầu khi sợi đứt, đo bằng %. Độ giãn dài càng cao thì sợi càng mềm mại.Vì vậy để có được loại sợi phù hợp với người tiêu dùng cần phải nắm rõ các thông số kỹ thuật khi sản xuất sợi sao cho thỏa mãn được hai chỉ tiêu quan trọng này nhằm thu được sợi vừa có độ bền cao vừa có độ giãn thích hợp.
5. Nếp gấp của xơ (Number of Crimp): Số nếp gấp của xơ Polyester được tạo thành dựa vào cấu tạo và số nếp của bông xơ tự nhiên sao cho xơ hóa học tạo thành có cấu tạo gần nhất với bông xơ tự nhiên để thuận tiện cho việc kéo sợi sau này.
6.Độ co nhiệt trong không khí nóng của xơ Polyester (Shrinkage in hot air 180ºC): là sự thay đổi chiều dài của xơ khi đặt trong không khí nóng 180ºC trong vòng 30’, độ co nhiệt trong không khí nóng ảnh hưởng đến quá trình dệt vải và độ co của vải được làm từ làm từ xơ đó.
7.Chiều dài cắt của xơ Polyester (Cut length): chiều dài cắt của xơ mà công ty đang sản xuất có chiều dài chuẩn là 38 mm.
8.Độ lệch chiều dài cắt so với quy cách (Cut length deviation): là đại lượng đặc trưng cho độ lệch của giá trị chiều dài cắt thực so với chiều dài cắt quy ước.
9.Hàm lượng dầu có trong xơ Polyester (Oil Pick Up – OPU): phần trăm về khối lượng dầu so với khối lượng của xơ, ảnh hưởng tới sự giảm ma sát trong quá trình sản xuất sợi.

CHẤT DẺO SINH HỌC TỰ PHÂN HỦY

Chất dẻo tổng hợp và những hậu quả đối với môi trường
Tái chế chất dẻo là một vấn đề đặc biệt quan trọng đối với môi trường
Kỷ nguyên polyme  mà nhiều người cho rằng đã bắt đầu vào năm 1907 với sự ra đời của chất dẻo bakelit do nhà hóa học Leo Bakeland phát minh – đã giúp cải thiện rất nhiều cuộc sống của con người, nhưng cũng mang lại những hậu quả không mong muốn. Hiện nay, ngành sản xuất chất dẻo tổng hợp trên toàn thế giới đang sử dụng hơn 60 triệu lao động và sản xuất mỗi năm hơn 200 triệu tấn vật liệu chất dẻo. Sản xuất polyme thương mại tiêu thụ khoảng 5% trữ lượng toàn cầu về nhiên liệu hóa thạch hữu hạn, như khí thiên nhiên và dầu mỏ. Mặt khác, phần lớn các sản phẩm chất dẻo đều có độ bền cao và có thể tồn tại hàng nghìn năm trong điều kiện bình thường, do đó đang góp phần đáng kể gây ra những núi rác thải ngày càng lớn trên toàn thế giới.



Những hình ảnh túi ni-lông, các sản phẩm phế thải từ nhựa, polymer tràn ngập các bãi biển đang ngày càng phổ biến
Túi chất dẻo phế thải là một trong những ví dụ điển hình về vấn đề rác thải của nhân loại  Mỗi năm, con người tiêu thụ hơn 1 nghìn tỷ túi PE để đựng các loại hàng hóa khác nhau. Ở một số nước, ví dụ Pháp, tỷ lệ tái chế đối với chất dẻo PET tương đối cao ( > 80%), nhưng ở những nước khác như Mỹ thì tỷ lệ này khá thấp ( < 30%). Trong khi một số sản phẩm chất dẻo đã qua sử dụng được xử lý bằng cách đốt để thu hồi năng lượng, phần lớn các sản phẩm khác hoặc là được chôn lấp hoặc tệ hơn nữa là vứt bỏ ra môi trường. Những chất dẻo có thể nôi trên mặt nước như PE và PP, đã dễ dàng tìm đường ra các đại dương – đích đến của khoảng 5 triệu tấn chất dẻo mỗi năm. Như vậy, cứ mỗi phút lại có 10 tấn chất dẻo phế thải đổ vào các đại dương trên thế giới.
Những hạn chế của chất dẻo PLA
Ngày nay, khoảng 5% nguyên liệu được sử dụng trong ngành sản xuất hóa chất Mỹ là các loại nguyên liệu có thể tái sinh. Một số chương trình và kế hoạch của chính phủ Mỹ đã đề ra mục tiêu tăng tỷ lệ này lên 25% vào năm 2030, trong khi đó một số tập đoàn hóa chất lớn như Dow Chemical và BASF đã công bố những kế hoạch đầy tham vọng với những mục tiêu lớn hơn.
Ước tính, lượng sinh khối được tạo ra hàng năm trên Trái Đất ( chủ yếu nhờ quá trình quang hợp ) là khoảng 170 tỷ tấn, gấp khoảng 1000 lần lượng chất dẻo tổng hợp được sản xuất ra. Tuy nhiên sinh khối này vẫn không đủ để đáp ứng nhu cầu của chúng ta về nguyên liệu cho sản xuất các sản phẩm polyme.
Có lẽ chất dẻo tổng hợp than môi trường ngày này là polyeste axit polylactic ( PLA) . Nhà máy PLA lớn nhất thế giới hiện nằm ở Blair, bang Nebraska, Mỹ. Tại đó, tinh bột ngô được chuyển hóa thành glucoza, sau đó glucoza được lên men một phần để chuyển hóa thành axit lactic. Công suất của nhà máy là 250.000 tấn/ năm, thấp hơn khoảng 1.000 lần sản lượng của toàn bộ ngành sản xuất polyme. Tuy nhiên, ngày nay PLA đã có mặt trong nhiều loại sản phẩm bao bì có thể phân hủy, ví dụ cốc chén và khay đựng hoa quả trong các nhà hàng, và cả trong các sản phẩm hàng hóa lâu bền, như sợi Ingeo dùng trong ngành dệt may.
Trước đây, nhiều nhà quan sát công nghiệp cho rằng PLA sẽ không bao giờ trở nên khả thi do chi phí sản xuất quá cao : Ban đầu giá PLA cao gấp 15 – 20% lần giá của các loại polyolefin. Tuy nhiên, nhờ sản xuất quy mô lớn nên ngày nay mức giá này chỉ còn cao hơn 15 – 20% so với giá của PET đi từ nhiên liệu hóa thạch mà hiện đang được sử dụng rộng rãi để sản xuất chai nước, màng mỏng và vải sợi.
PLA từng là niềm hi vọng lớn của chất dẻo sinh học, nhưng theo thời gian, nó cũng đã bộc lộ nhiều nhược điểm
Tuy PLA đã nhận được nhiều khen ngợi của các nhà bảo vệ môi trường, nhưng nó cũng có một số nhược điểm quan trọng. Chẳng hạn, PLA không bị phân hủy hoặc phân hủy sinh học trong các bãi chôn lấp thông thường, tương tự như các loại polyme truyền thống. Trong khi đó, việc vận chuyển các sản phẩm làm từ PLA đến các địa điểm làm phân trộn công nghiệp để tiến hành phân hủy sinh học thường là không khả thi. Hơn nữa, phạm vi nhiệt độ hữu ích của PLA bị hạn chế do nhiệt độ chuyển hóa thủy tinh thấp ( 55oC), trên nhiệt độ polyme sẽ mất đi tính chất cứng và bị biến dạng. Vị vậy, bao bị PLA không thích hợp để đựng đồ uống hoặc thức ăn nóng, trên cốc nhựa PLA thường có ký hiệu cảnh báo “Chỉ sử dụng cho đồ uống nguội”.
Xu hướng nghiên cứu các chất dẻo sinh học mới
            Một số nhóm nghiên cứu ở Mỹ đang tìm cách lấy cảm hứng từ thiên nhiên để phát triển các sản phẩm polyme sinh học kiểu mới. Một nửa lượng cacbon hữu cơ trong môi trường của con người hiện nằm ở dạng polyme phong phú nhất trên thế giới, đó là xenluloza. Các monomer glucoza tạo ra xenluloza thường được liên kết bởi nhóm chức axetal có thể thủy phân (-OCO-), đây là nhóm chức rất hiếm gặp trong lĩnh vực sản xuất polyme tổng hợp. Khi đưa nhóm axetal có thể thủy phân dễ dàng này vào bộ khung của PLA, một số nhà nghiên cứu đã tạo ra được dạng PLA có thể thủy phân. Căn cứ theo tốc độ mất trọng lượng của polyme trong nước cất hoặc nước biển, các nhà khoa học đã ước tính thời gian phân hủy của polyme PLA mới là 5 – 10 năm.
            Các nhà nghiên cứu Mỹ cũng đã phát triển loại polyaxetal khác, có cấu trúc tương tự polyetylen nhưng được chiết xuất từ các loại dầu sinh học. Mục đích của các nghiên cứu tiếp theo trong lĩnh vực này sẽ là thay đổi các tính chất nhiệt và cơ của polyetylen cho phù hợp, nhưng vẫn duy trì khả năng phân hủy trong nước của polyaxetal – nhờ đó có thể giảm đáng kể khối lượng các chất dẻo tồn tại dai dẳng trong các đại dương.
            Một loại polyme khác cũng đang được các nhà nghiên cứu quan tâm là PET. Polyme này chiếm khoảng 18% thị trường chất dẻo toàn cầu. Tại Mỹ, người dân thải bỏ mỗi giờ hơn 6 triệu chai PET. Do PET là một polyeste thơm, phương pháp thích hợp để biến đổi các tính chất nhiệt của PET là thu hồi các chất thơm từ thiên nhiên và sử dụng chúng làm nguyên liệu monome. Lignin, chiếm khoảng 30% thành phần của cây, là polyme hữu cơ phong phú thứ hai trên Trái Đất và là nguôn cung cấp tốt nhất các chất thơm có thể tái tạo. Lignin là sản phẩm phụ quan trọng của ngành sản xuất giấy, nhưng hiện nay hầu như toàn bộ sản phẩm này đều bị đốt tại chỗ để thu hồi năng lượng.
            Nhưng ngày nay chúng ta đã có công nghệ với khả năng chiết xuất hai loại phân tử riêng rẽ là vanilin và axit pherulic từ nguyên liệu lignin hoặc lignoxenluloza có trong cám lúa mì hoặc cám gạo. Các phân tử chất thơm này có tiềm năng trở thành các nguyên liệu ban đầu rất sẵn có và quan trọng thiết yếu cho nhiều ngành sản xuất. Ví dụ, axit polyester polydihy – dropherulic ( PHFA) có nhiệt độ chuyển hóa thủy tinh (Tg = 73oC) cao hơn so với PET (Tg = 67oC). Điều quan trọng là sản phẩm thủy phân của PHFA là axit dihydropherulic, một loại chất chống oxy hóa có mặt trong trà, cà phê, hạt ngũ cốc chưa xay và các thực phẩm giàu các chất chống oxy hóa khác. Hợp chất họ hàng của nó là axit pherullic hiện đã được bán trên thị trường ở dạng các viên 250mg dùng như thực phẩm bổ sung. Trong những nỗ lực nghiên cứu mới đây, các nhà khoa học Mỹ đã phát triển các phương pháp đồng trùng hợp PHFA với nhiệt độ chuyển hóa thủy tinh trên 150oC. Phạm vi nhiệt độ chuyển hóa thủy tinh rộng của những vật liệu đó khiến cho chúng trở thành những ứng viên xuất sắc để thay thế polyester (Tg = 95oC) trong sản xuất cốc, đĩa, đồ dùng nấu ăn, bao bì dùng một lần… và cho các quá trình đóng chai, đóng hộp nóng.
            Kết hợp với các nhà thiết kế thời trang, các nhà nghiên cứu cũng đang tìm cách đưa các polyester thơm kiểu mới này vào các loại sợi để sản xuất các loại quần áo thân môi trường.
Nghiên cứu sử dụng nguyên liệu metanol
Ngày nay etylen là phân tử hữu cơ được sản xuất ở quy mô lớn nhất trên toàn cầu, phần lớn được sử dụng cho sản xuất poly – etylen với sản lượng đến 80 triệu tấn/ năm – khoảng 40% thị phần của toàn bộ các polyme tổng hợp. Với những nỗ lực ngày càng tăng trong việc thay thế nhiên liệu hóa thạch bằng sinh khối thân môi trường, nhiều người cho rằng đường (glucoza, monome của xenluloza) là “dầu mỏ mới”. Nếu đúng như vậy, thì sẽ hợp lý nếu đặt ra câu hỏi. Vậy “etylen mới” là gì ? Một số nhà nghiên cứu cho rằng, formaldehyt chính là “etylen mới”.
            Formaldehyt và etylen có trọng lượng gần như trùng hợp và cả hai đều có cacbon tham gia trong liên kết đôi với hoạt tính cao, nhưng formaldehyt cũng chia sẽ tình trạng oxy hóa và công thức thực nghiệm của sinh khối, tương tự như xenluloza và đường. Một trong những ứng dụng tiềm năng của formaldehyt có thể dựa trên khả năng đông trùng hợp luân phiên với CO một cách hoàn hảo. Quá trình này đã được tối ưu hóa để thu được axit polyglycolic (PGA) mà về mặt chức năng tương đương với PGA thương mại, nhưng có thể được sản xuất với số bước ít hơn, nhờ đó giảm nhiều các sản phẩm phụ không cần thiết.
            Trước đây, chi phí cao và quy mô sản xuất nhỏ của PGA – so với PLA – đã ngăn ngừa khả năng sử dụng hợp chất này trong các ứng dụng thương mại. Nhưng điều quan trọng là các monome C1 không đắt tiền (formaldehyt và CO) có thể được sản xuất từ methanol mà từ cách đây hàng trăm năm đã được sản xuất theo phương pháp chưng cất gỗ.
            Nếu kinh tế đi từ nguyên liệu methanol đã được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là thân môi trường, dựa trên nguyên liệu sinh học, có khả năng thay thế nền kinh tế đi từ nguyên liệu dầu mỏ và các nhiên liệu hóa thạch khác. Nếu nền kinh tế đi từ methanol đạt được những thành công trong tương lai, các loại polyme dẫn xuất từ nguyên liệu C1 này sẽ trở thành những loại polyme nổi bật về hiệu quả kinh tế.
Xu hướng phát triển của thị trường
            Một trong những trở ngại cho sự phát triển của polymer xanh là động lực quá lớn hiện nay của ngành sản xuất polyme đi từ nhiên liệu hóa thạch. Nhiều công ty hàng đầu trên thế giới rất quan tâm đến việc tìm ra các quy trình sinh học để sản xuất các chất dẻo hàng hóa, có khả năng được kết hợp vào cơ sở hạ tầng về chế biến hiện nay của ngành, nhưng họ ít quan tâm đến việc phát triển các chất dẻo kiểu mới cho các sản phẩm bao bì và hàng hóa. Tư tưởng này giải thích phần nào thành công thành công của polyetylen đi từ nhiên liệu sinh học và sản phẩm PET Plantbottle của Công ty Coca Cola. Bằng cách sử dụng etanol sinh học đi từ đường lên men, các công ty Dow Chemical và Brasken đã sản xuất poly – etylen sinh học với sản lượng đứng đầu trong số các polyme tổng hợp đi từ nguyên liệu sinh học có thể tái tạo. Tương tự, Công ty Coca – Cola đã nghiên cứu etanol sinh học để tổng hợp comonome etylen glycol cho PET Plantbottle, nhờ đó đạt hàm lượng nguyên liệu sinh học đến 30%. Những phương pháp như vậy tuy trên danh nghĩa đã tìm cách giải quyết một số thách thức trong sản xuất polyme xanh, nhưng không đề cập đến việc loại bỏ các loại polyme truyền thống. Trên thực tế, polyetylen sinh học và PET Plantbottle đều có khả năng phân hủy không cao, tương tự như các sản phẩm đi từ nguyên liệu dầu mỏ.
            Thị trường chất dẻo toàn cầu hiện nay là ngành sản xuất công nghiệp với doanh số 1200 tỷ USD/ năm. Các sản phẩm chất dẻo cho những ứng dụng bao bì ngắn hạn chiếm khoảng một phần ba doanh số này.
            Tương tự như việc quay đầu một chiếc tàu chở dầu nặng nề, động lực của ngành sản xuất chất dẻo đang thay đổi từ từ và chậm rãi. Một bước nhảy định lượng sẽ chỉ xảy ra khi các công ty cần đáp ứng như cầu tăng mạnh của người tiêu dùng, liên kết với sự sẵn sàng chấp nhận chi phí cao hơn, ít nhất là trong giai đoạn quảng bá ban đầu và giai đoạn tăng trưởng của các sản phẩm polyme xanh tiếp theo.
            Tiềm năng của chất dẻo sinh học trong việc thay thế các chất dẻo truyền thống, kể cả sợi tổng hợp, là 90%. Điều đó có nghĩa là, chỉ khoảng 10% các sản phẩm polyme mà chúng ta sử dụng hàng ngày sẽ cần phải được sản xuất từ nhiên liệu hóa thạch vì chúng có những đặc điểm tính năng đặc biệt mà polyme đi từ nguyên liệu sinh học không thể có được. Do đó, trên lý thuyết ngành sản xuất bao bì polyme sinh học có khả năng sẽ tăng trưởng doanh thu với tốc độ hàng trăm tỷ USD mỗi năm.
            Năm 2007, ngành sản xuất polyme “xanh” tại Mỹ mới chỉ đạt doanh thu 1 tỷ USD, nhưng sẽ nhanh chóng đạt đến mục tiêu 10 tỷ USD vào năm 2020. Trong quá trình đó, các loại polyme thân môi trường sẽ tiếp tục thay thế cho các nguyên liệu truyền thống.
            Sự tăng trưởng của sản xuất polyme đi từ nhiên liệu sinh học sẽ được đẩy nhanh bởi sự suy giảm các nguồn tài nguyên nhiên liệu hóa thạch, sự tăng giá của nhiên liệu hóa thạch và sự thay đổi quan điểm khi người tiêu dùng chuyển hướng sang sử dụng các sản phẩm thân môi trường. Dĩ nhiên, các đổi mới kỹ thuật và công nghệ cũng sẽ là dộng lực quan trọng thúc đẩy sự tăng trưởng của thị trường polyme xanh trên thế giới.
Theo Tạp chí Công nghiệp và Hóa chất

Thứ Năm, 28 tháng 5, 2015

Các loại sợi thảm trải sàn và cách phân biệt

Với những phân tích cơ bản sau đây, chúng tôi sẽ giúp bạn hiểu và có thể phân biệt, cũng như chọn các loại sợi thảm trải sàn phù hợp cho mỗi vị trí và mục đích sử dụng khác nhau:

Cách phân biệt và chọn các loại sợi thảm, sợi len, xơ polyester
      Trước hết các bạn hãy hiểu đơn giản rằng thảm trải sàn cũng như bao các vật liệu trang trí nội thất khác, rất phong phú và đa dạng về chất liệu. Có thể bạn đang sử dụng : thảm tấm đế cao su cho văn phòng,  thảm trang trí cho phòng khách, hay thảm cuộn trải sàn… thì yếu tố cấu thành chủ yếu và quyết định chất lượng và giá cả của thảm đều nằm ở sợi thảm, cách dệt và kiểu dáng (design). Cũng từ đây mà bạn có thể đưa ra chọn lựa các loại thảm khác nhau sử dụng cho vị trí và mục đích khác nhau.
      Nắm bắt được ý niệm sơ khai đó, với những phân tích cơ bản về các loại sợi thảm, sợi len sẽ giúp ích bạn rất nhiều. Những chất liệu sợi được dùng để sản xuất thảm trải sàn
     1. Sợi tổng hợp: Olefin – Polypropylene – Đây là loại được dùng rất nhiều trong ngành dệt thảm: sợi dai, mềm, không tích điện tĩnh, rất bền màu. Với loại sợi này kết hợp với dệt độ dày mỏng khác nhau với giá thành từ thấp đến trung bình: loại mỏng bạn sẽ thường thấy được sử dụng trong việc trải thảm cho các buổi tổ chức sự kiện, hội nghị, còn loại dày và chất lượng tốt hơn được dùng phổ biến trong văn phòng làm việc hạng trung
      2. Sợi polyester: sợi mềm, đồ đàn hồi sợi cao, cũng là loại sợi phổ biến được dùng để sản xuất thảm văn phòng, với chất lượng tốt hơn Olefin – Polypropylene một chút. Sợi  xơ polyester cho màu sắc sáng hơn. Các thành phẩm từ loại sợi này, với mức đầu tư vừa phải, bạn hoàn toàn có thể bố trí trải cho các khu vực như: Phòng lãnh đạo, phòng họp, tiếp khách… khá sang trọng và tinh tế.
      3. Sợi Nylon: Có độ đàn hồi tốt, có thể chịu nặng và chịu áp lực di chuyển đồ vật và đặc biệt ấn tượng với loại sợi này khi nó cho những gam màu sáng bóng tuyệt đẹp. Một số điều tra trong lĩnh vực thảm cho thấy, đây là loại thảm được ưa chuộng nhất, đặc biệt với một số các nước phát triển, ví dụ: ở Mỹ có tới 2/3 khách hàng đang và thích dùng loại sản phẩm với chất liệu sợi này. 
      4. Sợi Acrylic: Loại sợi này cho cảm giác bề mặt giống len, dùng lâu được trong môi trường ẩm và hơi sương. Chúng thường được sử dụng tạo nên các thành phẩm thảm trải sàn với chất lượng, độ bền cao: Với các khách sạn thì các vị trí như: Hành lang, cầu thang, phòng tổ chức hội nghị… sẽ rất ấn tượng. Chúng ta cũng thường hay bắt gặp sợi acrylic trong các loại thảm trải sàn gia đình với tên gọi thảm nhung với những hoa văn cổ, đường nét mang hơi hướng Châu Âu… rất sang trọng tạo nên điểm nhấn cho không gian sống.
      5. Len: Với len chắc các bạn cũng khá rõ về chất lượng tuyệt hảo của chúng mà chỉ có loại chất liệu tự nhiên này mới có thể mang lại. Nó hội tụ đủ các phẩm chất để tạo nên một tấm thảm: độ bền cao ( 10-15 năm), ,mềm mại, dẻo dai, màu sắc tinh tế
    

Thứ Tư, 27 tháng 5, 2015

Nguyên liệu đầu vào của nhà máy sản xuất xơ sợi polyester - PTA

Từ trước đây, Dimethyl terephthalate (DMT) được sử dụng để sản xuất polyester bao gồm: polyethylene terephthalate và polytrimethylene terephthalate. DMT được hình thành từ một phản ứng giữa terephthalic acid và methanol, ưu điểm là dễ oxi hoá hơn dạng axit và có thể ngưng tụ trong chân không để tạo ra một sản phẩm tinh khiết. 
Quá trình phát triển
Vào năm 1960, Amoco giới thiệu phương pháp sử dụng PTA và đã định giá chiến lược cho sản phẩm mới này nhằm mục đích thay thế cho DMT và nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất polyester Cho đến giữa những năm 1980, do nắm bắt được công nghệ, một số nhà sản xuất lớn đã chi phối ngành công nghiệp sản xuất PTA. Amoco (nay là BP) là nhà sản xuất hàng đầu, cùng với các đối tác nhượng bản quyền là Mitsui, Mitsubishi và ICI (nay là Du Pont), cũng là các nhà sản xuất thương mại hàng đầu. Amoco, cùng với đối tác công nghệ Mitsui, rất lựa chọn trong việc nhượng bản quyền của họ để không ảnh hưởng vào hoạt động kinh doanh.
Tại Mĩ và sau đó ở châu Âu, Amoco đã xây dựng giá sản xuất thực tế của PTA với một giá trị thặng dư cố định nhằm đáp ứng chỉ tiêu lợi nhuận, kích thích tăng trưởng thị trường nhưng vẫn đủ sức cạnh tranh với các nhà sản xuất khác. Tuy nhiên, Amoco chỉ thành công trong việc thúc đẩy sự phát triển thị trường mà không thành công trong việc bao tiêu thị trường. Khi công nghiệp sản xuất polyester ở châu Á tăng trưởng nhanh chóng thì đôi lúc đã xảy ra việc thiếu hụt PTA, điều này buộc các nhà sản xuất phải tìm kiếm thêm công nghệ hỗ trợ sản xuất.
Vào giữa những năm 1980, khi bản quyền của Amoco hết hạn, ICI và Montedison (nay là Dow/Inca) và các công ty khác bắt đầu cung cấp bản quyền. Có hàng loạt công ty xếp hàng mua công nghệ, vì các nhà sản xuất polyester nhận thấy thị trường có lợi nhuận cao và mong muốn đảm bảo nguồn cung vật liệu thô đầu vào. Vào cuối những năm 1980, sự thiếu hụt PTA toàn cầu đã tạo ra sự đổ xô vào sản xuất của các nhà sản xuất polyester châu Á.
Các thông số và đặc tính cơ bản của PTA
PTA là dạng á bột có tinh thể mầu trắng với mùi chua nhẹ, có ảnh hưởng nhẹ tới mắt, da và đường hô hấp của người với các thông số như sau:
-          Công thức của PTA: C6H4(COOH)2;
-          Đặc trưng:  

Đơn vị Số lượng/mô tả 
Khối lượng phân tửg/mol166.13
Điểm nóng chảyĐộ CHóa hơi ở 402 độ C
Độ bốc hơiở 20 độ C (không khí = 1.0)5.74
Áp suất bốc hơiở 20 độ C<0,00013
pHPha loãng 1%2.16
-          Thông số kỹ thuật:  

Đơn vị Số lượng 
Độ axitMg KOH / gm675 ± 2
Độ ẩmwt%0,2 max
Độ Ashesppm7 max
4 Carboxybenzaldehydeppm20 max
Màu sắcAPHA (in N-N-Dimethyl From Amide Solution), HU10 max
Độ cứngppm0,5 max
Para Toluic Acidppm120 max
Tổng số các kim loại Fe, Mn, Co, Cr, Ni, Mo, Tippm2 max
Δ Y
10 tối đa
b-Color
1,5 max
-          An toàn: Không ảnh hưởng lớn đến sức khỏe con người  

Đơn vị Số lượng 
Điểm bắt lửa° C260
Điểm cháy° C496
-          Hình dạng:



Tiêu chuẩn PTA bán trên thị trường  
Tính chất/thành phầnMức giới hạnMức thông thường
4-CBA (ppmw)< 25< 20
Axit P-toluic (ppmw)< 150< 100
Tro (ppmw)61-3
Hàm lượng kim loại3< 1
Độ ẩm (% khối lượng)0,20,05
Màu (b-value)2< 2
Cỡ hạt trung bình (micron)14090 - 140
Sản xuất PTA
Gần như việc sản xuất axit terephthalic thương mại đều sử dụng quy trình sản xuất PTA của Amoco hiện do BP sở hữu. Trước đây, Amoco đã mua quy trình hoá học cơ bản từ Scientific Design Corporation và phát triển thành quy trình thương mại vào cuối những năm 1950.
Trong giai đoạn đầu tiên của quy trình, paraxylene được ôxi hoá nhờ không khí trong axit acetic lỏng với các xúc tác côban/măngan/brôm để tạo ra axit terephthalic thô (CTA). Phản ứng ôxi hoá tạo ra một lượng nhiệt lớn, thông thường được thu hồi dưới dạng hơi và được sử dụng cho việc gia nhiệt và phát điện. Do CTA chứa các chất trung gian trong quá trình ôxi hoá và các thể màu, bước tiếp theo sẽ được sử dụng để lọc giảm các chất này xuống nồng độ yêu cầu. Chất trung gian gây khó khăn nhất là 4-carboxy benzaldehyde (4-CBA) có tính hoà tan tương tự axit terephthalic trong hầu hết các dung môi thông thường và do đó không thể tách ra bằng phương pháp tinh thể hoá. Bằng cách chuyển 4-CBA thành axit paratoluic có tính hoà tan cao, các chất trung gian này có thể được tách ra. Điều này được thực hiện bằng cách hydro hoá trong nước dung dịch dưới nhiệt độ và áp suất cao trên một nền palađi với xúc tác carbon.
Tình hình thị trường sản xuất PTA
Hiện nay, thị trường châu Á là lớn nhất và năng động nhất và giá của PTA tuân thủ theo cân bằng cung cầu của thị trường này. Trong những năm gần đây, Trung Quốc là nước có nhu cầu PTA lớn nhất ở thị trường châu Á và giá nhập PTA của Trung Quốc là mốc cho các nhà xuất khẩu của châu Á.
Tiêu thụ PTA trên thế giới được dự báo là tăng trưởng 7% hàng năm cho đến 2015, có nghĩa là thị trường sẽ tăng đáng kể từ 35,2 triệu tấn vào 2006 lên 63,7 triệu tấn vào 2015. Trung Quốc đẩy tăng trưởng tiêu thụ của thế giới với dự báo về tăng trưởng tiêu thụ của Trung Quốc là trung bình 11% hàng năm giữa 2005 và 2015. Vào 2015, tiêu thụ của Trung Quốc sẽ chiếm khoảng 57% thế giới, so với khoảng 42% của thế giới vào 2006. Các vùng khác cũng có mức tăng trưởng mạnh là Nam Mĩ 9% từ 2005-2015, Đông Âu khoảng 30% nhưng với mức khởi điểm rất thấp, Trung Đông và châu Phi là 11%. Tăng trưởng của Ấn Độ sẽ vào khoảng 7% và cùng với khối lượng thị trường, Ấn Độ sẽ là thị trường quan trọng thứ hai đối với việc tăng trưởng. Các vùng khác như Tây Âu và Bắc Mĩ nơi thị trường cho các sản phẩm cuối dòng đã phát triển lâu hơn sẽ có tăng trưởng thấp hơn nhiều, vào khoảng 3-3,5%. Sau 2012, cần có bổ sung công suất để tránh tỉ lệ công suất vận hành vượt quá 95% vào 2013.